


LỜI NÓI ĐẦU
Các em học sinh thân mến,
Vậy là các em đã làm quen với tiếng Hàn được một năm. Hi vọng các em đã nắm vững những kiến thức nhập môn tiếng Hàn trong cuốn sách Tiếng Hàn 6 – Ngoại ngữ 2.
Tiếng Hàn 7 – Ngoại ngữ 2 sẽ tiếp tục cung cấp cho các em những thông tin tiếng Hàn cơ bản nhất với chủ đề gần gũi ở trình độ sơ cấp như: Sinh hoạt hằng ngày, Lớp học, Vị trí, Đồ dùng trong gia đình, Địa điểm, Trường học, Sự vật, Thời gian, Mơ ước.
Sau khi học xong các nội dung trong sách Tiếng Hàn 7 – Ngoại ngữ 2, các em có thể giao tiếp và diễn đạt bằng tiếng Hàn những nội dung nói trên. Đặc biệt, các em còn được giới thiệu nét văn hoá Hàn Quốc đặc sắc có sự đối chiếu với văn hoá Việt Nam sau mỗi bài học.
Chúc các em thành công trong việc học tập và luôn yêu mến tiếng Hàn.
Nhóm tác giả
Bài giảng 1: Giới thiệu chung
Một, Cái gì là Ngữ pháp?
Ngữ pháp là gì? Ngữ pháp nói đến những vấn đề gì? Nói đơn giản nhất, ngữ pháp là quy tắc của lời nói. Ngữ pháp tiếng Trung chính là những quy tắc mà khi nói chuyện người Trung Quốc cần tuân theo. Quy tắc này tồn tại khách quan, do xã hội quy ước thành. Xem bốn ví dụ sau:
- 弟弟不是钢笔. (Em trai không phải là bút máy.)
- 钢笔弟弟不便. (Bút máy em trai không tiện.)
- 不使弟弟钢笔。 (Không dùng em trai bút máy.)
- *不使弟弟钢笔。 (Không dùng em trai bút máy.)
Bốn ví dụ này đều có chứa “弟弟” (em trai), “不” (không), “使” (dùng), “钢笔” (bút máy) bốn thành phần, nhưng khi sắp xếp lại thì chúng ta có thể thấy quy tắc ngữ pháp. Ví dụ (1) (2) (3) đều có thể nói, nhưng (4) thì không thể nói được. Hai cái đầu tiên có thành phần và ý nghĩa của thành phần cũng giống nhau, nhưng ý tưởng lại khác nhau. Vậy tại sao cái này được? Là do chúng ta dựa vào những quy tắc nói chuyện tương đồng khác nhau. Có thể nói, ngữ pháp là những quy tắc về sự biểu đạt của ngôn ngữ.
Trong bốn câu nói trên đều có thành phần: “弟弟” (em trai), “不” (không), “使” (dùng), “钢笔” (bút máy). Nhưng người nói tiếng Trung đều sẽ thấy các ví dụ (1), (2), (3) có thể sử dụng đúng tác, còn ví dụ (4) thì không dùng đúng quy tắc ngữ pháp. Tại sao như vậy? Đó là bởi vì dùng (1), (2), (3) có thể dùng với động từ, còn (4) thì không thể dùng. Có thể thấy, “钢笔” không thể nối với “使” về ý nghĩa cũng không có nghĩa là “dùng” “钢笔”. Một chữ “弟” gắn như cũng có thể biểu thị ý nghĩa của “兄弟”, vậy tại sao nói “弟弟” mới là một từ được? Cần hiểu rằng, không phải bất cứ 1 chữ nào có thể biểu thị một ý nghĩa chính là một từ, còn phải xem xét ngữ pháp độc lập hay không.
Chúng ta chưa bao giờ nói “弟弟不使钢笔”. Tôi có một anh trai rất thích đọc. Điều này chứng tỏ mặc dù “弟弟” là chữ cố ý nghĩa trong tiếng Trung hiện đại không thể vựng độc lập, từ “弟弟”, “弟弟” là một từ có thể dùng độc lập. Vì vậy, “弟弟” là một từ, “弟弟” không phải từ. “不” và “使” đều có ý nghĩa, hơn thế đều có thể vận dụng độc lập (ví dụ như: không ăn, không xem, dùng bút máy, thay đổi); hai “不” và “使” kết hợp không chặt chẽ, có thể tách ra (ví dụ như: không mua, không dùng, làm việc khác). Tóm lại, “不” và “使” có thể giải thích thì đơn vị có thể vận dụng độc lập, có ý nghĩa riêng. Vì vậy, “不” và “使” mặc dù chỉ có những bản thân nó chính là một từ. Có thể thấy, từ là thành phần ngôn ngữ có thể vận dụng độc lập mang ý nghĩa nhỏ nhất trong ngôn ngữ, nó đơn vị tạo thành câu, nguyên vật liệu xây dựng của câu.
Nói chung, những từ đã lấy ở trên, có từ chỉ gồm một chữ, có từ gồm hai chữ, có từ gồm hai âm tiết, thường hay tên gọi, sau đó là hai từ âm tiết. Có rất nhiều từ đồng âm, ví dụ như “拖拉机” (máy kéo), “唯物主义” (chủ nghĩa duy vật), “北京大学” (Đại học Bắc Kinh), những yếu tố này đều có những từ đồng âm, so với từ đồng âm thì từ đồng âm thì ít hơn.