Báo cáo tổng kết dự án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học ở Việt Nam (2015) là tài liệu quan trọng do Cục Bảo tồn Đa dạng Sinh học (BCA), Tổng cục Môi trường (VEA), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE) phối hợp thực hiện cùng sự hỗ trợ của Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA).
Dự án tập trung xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu toàn diện về đa dạng sinh học, bao gồm thu thập, chuẩn hóa và tích hợp thông tin về hệ sinh thái, loài, nguồn gen, cũng như các khu bảo tồn trên cả nước. Báo cáo không chỉ phản ánh thực trạng đa dạng sinh học tại Việt Nam, mà còn đưa ra các giải pháp về quản lý, giám sát, khai thác bền vững và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Tài liệu là nguồn tham khảo thiết yếu cho nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý, sinh viên và các tổ chức quốc tế quan tâm đến môi trường, biến đổi khí hậu và phát triển bền vững.
1. Tổng quan về Dự án
(1) Thông tin cơ bản về Dự án
[Tên dự án]
Dự án Xây dựng Cơ sở dữ liệu Quốc gia về Đa dạng sinh học
[Thời gian thực hiện dự án]
Từ tháng 11 năm 2011 đến tháng 3 năm 2015 (3 năm 5 tháng)
Giai đoạn 1: Từ tháng 11/2011 đến tháng 3/2013
Giai đoạn 2: Từ tháng 4/2013 đến tháng 3/2015
[Cơ quan chủ quản]
Cục Bảo tồn Đa dạng sinh học (BCA), Tổng cục Môi trường (VEA), Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE)
[Tổ chức liên quan tham gia hợp tác]
MARD, MOST, VAST, Tỉnh Nam Định, v.v.
[Khu vực mục tiêu cho điều tra thí điểm]
Vườn Quốc gia Xuân Thủy (Tỉnh Nam Định)
(2) Giới thiệu tổng quan
Mặc dù Việt Nam là nơi cư trú của khoảng 10% các loài sinh vật trên thế giới, là nơi có tính đa dạng sinh học rất cao, trong đó rừng, nơi cung cấp phần lớn các sinh cảnh của hệ sinh thái lục địa, vốn từng một thời che phủ khoảng 43% (năm 1943) và giảm nhanh xuống còn khoảng 27,7% (năm 1990) do chặt phá rừng bất hợp pháp và chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp vì tăng dân số và đói nghèo.
Từ các nỗ lực khôi phục rừng trong các năm gần đây, độ che phủ rừng được khôi phục xấp xỉ 39,1% vào cuối năm 2009, tuy nhiên, hơn nửa diện tích này là rừng trồng, tính đa dạng sinh học không cao, diện tích rừng nguyên sinh còn rất ít, và có thể nói rằng đang tiếp tục bị suy thoái. Thêm vào đó, cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng trong những năm gần đây là sự gia tăng dân số và tiêu dùng dẫn đến sự giảm sút mức nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Sự phát triển nhanh chóng và việc xây dựng cơ sở hạ tầng đã và đang làm thay đổi cảnh quan quốc gia, làm xuống cấp các cảnh quan tự nhiên, làm co hẹp các hệ sinh thái và làm mất đi sinh cảnh sống của các loài động thực vật hoang dã. Một vấn đề đáng lo ngại nữa là theo dự báo thì các ảnh hưởng mạnh mẽ do biến đổi khí hậu cũng sẽ dẫn đến các tổn thất lớn về đa dạng sinh học.
Trong hoàn cảnh đó, hướng ứng mục tiêu đến năm 20101 được thông qua tại Hội nghị các Bên tham gia Công ước Đa dạng Sinh học lần thứ 6 (CBD/COP6, 2002), Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt …
1 Các quốc gia tham gia công ước cam kết nỗ lực giảm đáng kể tốc độ tổn thất đa dạng sinh học trước 2010.



