


NGUYÊN ÂM
Phần lớn các nguyên âm của tiếng Thái gần tương dương với tiếng Việt. Các nguyên âm này không đòi hỏi phải nghe và thực tập kỹ, nếu bạn biết được các nguyên âm của tiếng Pháp và tiếng Ý sẽ có tác dụng tốt.
Cần phân biệt giữa nguyên âm dài và ngắn, được biểu thị bằng cách gấp đôi nguyên âm hoặc có thêm âm ‘h’, sự khác nhau này có thể thay đổi ý nghĩa của từ (giống như ‘ship’ và ‘sheep’ tùy thuộc vào nguyên âm có được kéo dài hay không trong tiếng Anh).
a như ‘u’ trong từ ‘chu’
aa như ‘a’ trong từ ‘cha’; kéo dài gấp đôi a
ae như ‘a’ trong từ ‘bát’
ai như ‘ai’ trong từ ‘tai’
ao như ‘au’ trong trong từ ‘nâu’
aw như ‘ơ’ trong từ ‘do’
e như ‘e’ trong từ ‘sen’
eh như ‘a’ trong từ ‘hay’, nhưng với mỗi bẹt; kéo dài gấp đôi e
eu như ‘ơ’ trong từ ‘tơ’
eua ơ + a
i như ‘i’ trong từ ‘ti’
ia như ‘i’ trong từ ‘phi’; kéo dài gấp đôi i
ii như ‘ia’ trong từ ‘tia’
iaw như ‘iô’ trong từ ‘tiô’
iu như ‘iu’ trong từ ‘xiu’
o như ‘ơ’ trong từ ‘tôn’, nhưng ngắn hơn
oh như ‘âu’ trong từ ‘lâu’
oe i + i
u như ‘u’ trong từ ‘cung’, nhưng ngắn hơn
uu như ‘u’ trong từ ‘chung’; kéo dài hơn u
ua u + a
uai u + ai
uây a + ai
ui u + i
uhy như ‘ơi’ trong từ ‘soi’
uay aw + i
aew ae + u (với môi tròn)
PHỤ ÂM
Các phụ âm âm ‘k’, ‘p’ và ‘t’ trong tiếng Thái, bạn có thể phát âm các phụ âm này có hoặc không có hơi để phân biệt các âm khác nhau. Thí dụ, âm ‘k’ trong từ lék không có âm gió; khi nói phải ‘nuốt’ phụ âm cuối.
Âm gió được biểu thị bằng chữ ‘h’. Thí dụ, âm ‘k’ trong từ inkhão được phát âm có gió. Phụ âm ‘ph’ được phát âm là ‘phờ’ có hơi gió). Phụ âm ‘ch’ được phát âm ‘chờ’.
Các phụ âm khác có thể khó phát âm
ng như ‘ng’ trong từ ‘sang’; được dùng như một phụ âm đầu và phụ âm cuối trong tiếng Thái
j như ‘chờ’ cong lưỡi
r như ‘r’ trong từ ‘rắn’, nhưng lưỡi đánh lên vòng
miệng; trong đàm thoại hằng ngày, nó thường được
phát âm như ‘l’ hoặc thậm chí bỏ hoàn toàn.
PHIÊN ÂM CHỮ VIẾT
Việc viết tiếng Thái theo cách viết chữ La Mã là một vấn đề lớn về cách để tồn tại mãi; thực ra cách có hệ thống nào được sáng tạo dù thỏa mãn được cả tình nhất quán và khả năng dễ viết. Chính phủ Thái sử dụng hệ thống phiên âm RTGS làm tài liệu chính thức của chính phủ cho việc phiên âm tiếng Anh và hầu hết các biến âm trên xa lộ. Tuy nhiên, hệ thống phiên âm này không được soạn thảo để dùng cho người muốn học tiếng Thái. Nó không biểu hiện sự khác biệt về tầm quan trọng của việc phát âm. Thí dụ, hệ thống không phân biệt giữa các nguyên âm dài và ngắn; o và aw (cả hai đều biểu thị như o); u và eu (cả hai đều là o); hoặc ch và j (cả hai đều là ch).
Để thực hiện được mục đích này, nhiều từ tiếng Thái (nhất là tên người và địa danh) có cách viết từ tiếng Thái Phạn và tiếng Pali, nhưng cách phát âm âm thực sự có một ít quan hệ với cách viết từ chữ La Mã hóa theo tiếng Thái Phạn hoặc tiếng Pali gốc. Vì thế, các từ Nakhon sri Thammarat, nếu được phiên âm đúng theo từng chữ sẽ là Nagora Sri Dhammaraja. Nếu bạn muốn phát âm theo cách phiên âm của tiếng Pali, rất ít người Thái có thể hiểu được cách phát âm của bạn.
Ngoài thực tế này, các biên bản của tiếng địa phương có thể thấy ở các băng hiệu ở khách sạn, các biển báo trên đường phố, phà đò, v.v… Thí dụ, từ Thawi được viết là tavi, Thawee, Thavi và Tavee. Người Thái thường dùng các từ tiếng Anh không có âm tương đương trong tiếng Thái: Faisai thay cho phaisan, Bhumibol thay cho phumiphon, Vanich thay cho wanit, Vibhavadi thay cho wiphawadi. Đôi khi chúng còn được pha trộn cách phiên âm của tiếng Phạn với cách phát âm tiếng Thái, như trong King Bhumibol được phát âm là phumiphon.
Sau đây là phần tóm lược về các từ thường dễ gây lầm lẫn mà bạn có thể gặp phải khi cố phát âm các từ tiếng Thái được phiên âm.
- Không có âm trong vòng tiếng Thái, vì vậy Sukhumvit được phát âm là Sukhumwit và Vieng, nghe như được phát âm là wiang.
- Các chữ l và r ở cuối từ luôn luôn được phát âm là n; vì thế, satul được phát âm là satun và wihar được phát âm là wịhaan. Ngoại trừ, khi er hoặc ur được dùng để chỉ âm oe, như ở từ ampher, được phát âm là amshoe; hoặc khi or được dùng thay cho âm aw như ở từ porn, được phát âm là phawn.
- Các âm l và r thường được dùng thay cho nhau khi nói và điều này cũng thấy ở trong một số từ phiên âm. Thí dụ, naliga (cái đồng hồ) có thể thấy được viết là nariga và raat naa (một món mỉ) có thể được viết lại là laat naa hoặc lat na.
- Chữ u thường được dùng để chỉ âm rút ngắn, như ở tam nam, có thể thấy là tum và num. Nó cũng được dùng để chỉ âm eu, như từ beung (cầm lấy) được viết là bung.
- Theo ngữ âm, tất cả các tiếng Thái đều được phát âm với một nguyên âm cuối (a, e, i, o, u), bốn nguyên âm (y, w) hoặc một trong 3 phụ âm (p, t và k) nói trên ở trên.
- Các từ được phiên âm với các tận ch, j, s hoặc nhur –panich, -raj, -chuanpis và –had sẽ phát âm âm như chúng có tận là t, nhur – panit; -rat nhur –chuanpit và –hat. Cũng như thế, g sẽ được phát âm là k (ralug sẽ là raluk) và b được phát âm là p (thab tro thakhon thap).
Sau đây là một số từ đặc biệt thường được viết theo cách dễ làm phát âm sai.
Cách viết thông thường | Phát âm | Nghĩa |
bung | beung | ao nước/dầm lầy |
ko/koh | kaw | đảo |
muang | meuang | thành phố |
nakhon/nakorn | nakhawn | thành phố lớn |
raja | thường là raatcha ở đầu từ, raat ở cuối từ | hoàng gia |
sri | sii | sự tốt đẹp |