


**LỜI GIỚI THIỆU**
Quản trị kinh doanh các loại hình cơ sở lưu trú là một ngành phát triển liên tục trong sự đa dạng hóa, phong phú hóa sản phẩm, dịch vụ để đáp ứng yêu cầu của các thời đại. Nhưng trong các loại hình cơ sở lưu trú thì loại hình “Khu nghỉ dưỡng” (Resort) lại mang tính “động” hơn. Điển hình là ở Việt Nam, trước 1990, chúng ta chưa có cơ sở nào xứng đáng để đáp ứng các tiêu chí của một “Khu nghỉ dưỡng”, mặc dù chúng ta có rất nhiều “khách sạn biển”. Trong các năm đầu thế kỷ XXI, hàng ngàn Khu nghỉ dưỡng thi nhau xuất hiện khắp Duyên hải Miền Trung, và Mũi Né được giới trẻ trên thế giới gọi là “Thủ đô Resort” của Việt Nam. Vì loại hình kinh doanh Khu nghỉ dưỡng rất mới mẻ, nên người trong chúng ta cứ nghĩ việc kinh doanh Khu nghỉ dưỡng và Khách sạn sạn giống nhau. Sự thực là có nhiều khác biệt, khác biệt trong kiến trúc và xây dựng cơ sở hạ tầng, khác biệt trong xây dựng sản phẩm, khác biệt trong cách bán phòng, trong thái độ phục vụ, trong các dịch vụ vụ… Tác giả, ThS. Sơn Hồng Đức, người có kinh nghiệm hoạt động và giảng dạy trong ngành khách sạn, nhà hàng và khu nghỉ dưỡng từ những năm 1980, với tư cách là người trong ban Lãnh đạo Saigon Floating Hotel, một khách sạn quốc tế, điều hành theo phong cách quốc tế đầu tiên ở Việt Nam sau thời kỳ mở cửa, đóng góp những trải nghiệm, thực tế qua tác phẩm: “Quản trị Kinh doanh Khu nghỉ dưỡng: Lý luận và Thực tiễn” Trong Phần Một, tác giả nêu lên “Cơ sở lý luận” làm nền cho việc quản lý kinh doanh một Khu nghỉ dưỡng quốc tế, từ lịch sử hình thành ở thời La Mã, xuyên suốt qua nhiều giai đoạn, các biến thể ở thế kỷ XX. Đặc biệt là khi Công nghệ thông tin được đưa vào sử dụng và đem lại các thuận lợi cho người quản lý và người làm công tác Marketing. Trong Phần Hai, tác giả nêu lên các khía cạnh thực tiễn trong quản trị kinh doanh khu nghỉ dưỡng, đặc biệt là các sản phẩm “phi truyền thống”, mà tác giả có dịp nghiên cứu ở các nước Đông Nam Á, Úc và Việt Nam, những nơi mà tác giả có cơ hội tập quản lý lý trước khi về tham gia ban Lãnh đạo Saigon Floating Hotel. Nhưng điều quan trọng mà tác giả muốn gởi đến người đọc là giữa các bên có liên quan: Chính quyền địa phương – chủ cơ sở và người dân cần đạt được sự cân bằng giữa các giá trị kinh tế và môi trường, giữa lợi ích và trách nhiệm xã hội của chủ đầu tư khu nghỉ dưỡng, giữa tận thu và hợp tác để có sự phát triển bền vững. Xin trân trọng giới thiệu đến Quý độc giả, nhà quản lý và sinh viên. TP.HCM, ngày 6 tháng 2 năm 2012 PGS.TS.NGƯT Phan Huy Xu Trưởng Khoa QTKD Du Lịch Đại học Quốc tế T.Hồng Bàng Năm 2011 là “Năm Du lịch Quốc gia” có chủ đề “Du lịch Biển, Đảo”, với nhiều hoạt động phong phú như “Liên hoan biển Việt Nam” (Ninh Chữ – Ninh Thuận) – “Năm Du lịch Quốc gia Duyên hải Nam Trung Bộ” (Phú Yên) – “Lễ hội Nghinh Ông, Cần Giờ” (Tp. Hồ Chí Minh). Ngoài ra có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức, như Hội thảo Khoa học “Du Lịch Biển đảo và Phát triển Bền vững” do Khoa Địa lý – Trường Đại học KHXH&NV (Tp.HCM) tổ chức ngày 26/11/2011. Điều này cho thấy xã hội có mối quan tâm cao đổi với biển đảo. Thực vậy, biển – đảo là một nguồn tài nguyên lớn cho hoạt động du lịch và cơ sở kinh doanh du lịch, vì đây là một vùng văn hóa sinh thái đặc sắc. Không chỉ là khí hậu, môi trường, cảnh quan mà còn là sự đa dạng văn hóa dân tộc, văn hóa bản địa, ngành nghề truyền thống. Nước Việt Nam, với bờ biển nhìn ra hai hướng Đông và Tây, dài hơn 3.000 Km đã đón tiếp 5 triệu du khách nước ngoài và 24 triệu du khách trong nước vào năm 2010. Du lịch đã đóng góp 3,9% GDP, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1,4 triệu người-dân, phần lớn trong tuổi thanh niên. Trong đó, du lịch biển đảo là hướng chủ đạo đã thu hút 70% doanh thu của ngành du lịch, thu hút 60% số lượng khách quốc tổ đốn Việt Nam và 50% khách nội địa. Vùng biển đảo cũng tập trung 5/7 địa bàn du lịch trọng điểm của cả nước. Khi nói đến du lịch biển, đảo chắc chắn phải nói đến các cơ sở lưu trú, có thể đó là nhà nghỉ, khách sạn hay khu nghỉ dưỡng. Hiện nay có cơ sở như thế
**LỜI GIỚI THIỆU**
Hòa vào mối quan tâm chung của xã hội, chúng tôi chọn một khía cạnh trọng nhiều mặt của du lịch biển đảo, đó là lĩnh vực kinh doanh lưu trú, đặc biệt là loại hình khu nghỉ dưỡng. Sau hơn 15 năm giảng dạy trong ngành Du lịch đồng làm công tác quản lý, công tác tư vấn, chúng tôi nghĩ rằng các cuộc nghiên cứu cứu mang tính lý luận sẽ rất bổ ích cho công việc quản lý hoạt động hàng ngày của các khu nghỉ dưỡng (Resort). Khai niệm “Khu nghỉ dưỡng” bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ giữa thập niên 1990 của thế kỷ XX ở tỉnh Bình Thuận, sau kỹ thuật Nhật. Từ đó đến nay, loại hình lưu trú gọi là “Khu nghỉ dưỡng” xuất hiện khắp các tỉnh miền Trung, nơi mà thiên nhiên ban tặng cho những bãi cát vàng vô tận, bãi xanh, bầu trời trong, nắng ấm và không khí trong lành. Đặc biệt là ở Quảng Nam – Đà Nẵng – Nha Trang – Khánh Hòa – Ninh Thuận – Bình Thuận và Bà Rịa – Vũng Tàu, nhờ yếu tố khí hậu nên có thể hợp tác du lịch suốt năm. Và Mũi Né đã trở thành “Thủ đô Resort” của Việt Nam. Nhưng cũng có một thực tế là nhiều nhà đầu tư gánh cho cơ sở của họ danh xưng “Resort” trong lúc không có đầy đủ các thuộc tính của một “Khu nghỉ dưỡng”, và nơi ấy chỉ là một “Khách sạn sạn biến”. Hệ quả là nhà thiết kế thiết kế một mặt khách sạn sạn biển, nhà quản lý giống như một khách sạn sạn, nhân viên có cung cách phục vụ và tâm thức của nhân viên khách sạn sạn. Điều này này khiến cho các “Khu nghỉ dưỡng” khó phát huy vai trò đem lại cho khách nghỉ dưỡng những “làn hương” và qua đó đã đạt được hiệu ứng nâng tầm về mặt doanh thu. Còn về mặt Marketing không thể xây dựng được thương hiệu (Branding) xứng tầm quốc tế; đó là chưa kể việc nhiều khách cho rằng chúng ta “Treo đầu dê, bán thịt chó”. Chúng ta cần quan niệm rằng, một “Khu nghỉ dưỡng” là một cơ sở kinh doanh lưu trú với bốn nhiệm vụ sau:
* Cung cấp cơ sở lưu trú, qua đó tạo sự thoải mái cho khách tận hưởng. Một nơi tuyệt đối an toàn, không ồn ào, bon chen, không khí trong lành luôn có người phục vụ theo dõi khách từ xa và sẽ xuất hiện khi khách cần.
* Cung cấp sản phẩm ẩm thực đa dạng, tươi sống, cao cấp mà khách khó có được khi ở nhà. Các món ăn ngon nhưng không nhiều chất béo, đặc biệt là yếu tố bản địa rất cần thiết. Khách vừa du lịch nghỉ dưỡng vừa muốn khám phá ẩm thực.
* Cung cấp những dịch vụ vui chơi giải trí từ nhẹ nhàng, trí thức đến những hoạt động đòi hỏi cơ bắp có phần nào phiêu lưu. Xây dựng những chương trình, sự kiện, phương tiện để khách có thể sinh hoạt suốt ngày đêm, tận hưởng thời gian không nhàm chán. Giải trí còn phải mang lại sự thư thái, giảm stress và tái tạo sự tươi trẻ cho cơ thể.
* Cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đa dạng, từ ăn uống cho đến làm đẹp, thư giãn.
* Nhưng điều quan trọng đặc biệt là cung cách phục vụ không phải đại trà mang dáng vóc công nghiệp như ở Khách sạn mà phải có những cung cách nhắm vào từng khách hàng với những đặc tính cá nhân. Điều này đòi hỏi nhân viên phải có những tố chất đặc biệt (ví dụ: tính nhẫn nại) và một chương trình đào tạo nhầm huấn luyện nhân viên có được định hướng khách hàng rõ rệt, tế nhị trong đối xử và hiểu biết hành vi của khách hàng.
* Điều quan trọng là thái độ của nhà Quản lý khu nghỉ dưỡng đối với môi trường (tự nhiên và xã hội) nơi cơ sở đứng chân. Ý thức rõ về mối quan hệ này trong tinh thần trách nhiệm cao về mặt bảo vệ môi trường tự nhiên và văn hóa. Vì đây là yêu cầu quan trọng của thế kỷ XXI. Vì nếu môi trường trở nên xấu đi, khách sẽ ít đến hơn, và cả xã hội đều bị mất mát. Nước thải ra biển chưa được xử lý, dẫn dần làm bẩn biển, khách sẽ chán không đến khu vực ấy.

